Phêrô Nguyễn Khắc Hà, MIC
Sống trong một xã hội ngày hôm nay, các Kitô hữu phải đối diện với nhiều sự biến chuyển, không chỉ về lĩnh vực giáo dục, văn hóa, kinh tế, đời sống đức tin nhưng còn về khía cạnh luân lý. Một câu hỏi đặt ra cho hết thảy các Kitô hữu là: “Luân lý Kitô giáo so với luân lý thế tục và luân lý thời Cựu ước có gì giống, khác và mới mẻ không?”. Bài viết này sẽ phân tích và trả lời cho câu hỏi được nêu trên.

- Khái quát về luân lý
Luân lý là gì? Chúng ta bắt gặp nhiều định nghĩa khác nhau. Luân lý (mores) diễn tả hành vi, lối sống và tinh thần của con người theo những gì được xem là tốt, là phải và đúng đắn, là thuần phong mỹ tục (costume)[1]. Theo linh mục Cao Chu Vũ, OP: “Luân lý là một bộ môn khoa học nghiên cứu về lối sống, các hành vi của con người theo nghĩa đó là những điều phải làm; vì nếu không làm, con người không thể trở nên điều họ phải là”[2].
- Nét tương đồng của luân lý Kitô giáo so với luân lý thời Cựu ước và luân lý thế tục.
Thiên Chúa nói với con người qua tiếng nói lương tâm. Không phải chỉ người Kitô hữu mới có lương tâm mà tất cả mọi người thuộc mọi nước, mọi dân, mọi màu da đều có lương tâm luân lý để phân biệt đúng sai, tốt xấu, thiện ác[3]. Thật vậy, lương tâm là một khả năng luân lý trong tâm hồn giúp ta nhận định bản chất sự việc là tốt hay xấu dựa theo những tiêu chuẩn đạo đức tự nhiên và khách quan, đồng thời nó thúc đẩy ý chí ta làm điều lành tránh điều dữ[4]. Vì lẽ đó, giá trị của mọi nền luân lý đều nằm trong mối tương quan với lương tâm[5]. Có thể nói rằng lương tâm là thẩm phán cho những giá trị luân lý. Tuy nhiên, lương tâm không hẳn là thước đo cho mọi hành vi luân lý. Bởi lương tâm cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh như môi trường giáo dục, văn hóa, xã hội,…
Tất cả mọi nền luân lý khác nhau đều có chung nền tảng là luật tự nhiên hay còn gọi là luật bản tính[6][7]. Vậy luật tự nhiên là gì? Luật tự nhiên là quy luật hướng dẫn hành vi nhân linh, xuất phát từ toàn bộ đầy đủ bản tính con người, được quy hướng về mục tiêu cuối cùng của bản tính ấy và được nhận biết nhờ lý trí, không cần mặc khải thiết định của Kitô giáo[8]. Hay Thánh Tôma định nghĩa: “luật tự nhiên không gì khác hơn là sự tham phần vào luật vĩnh cửu nơi thụ tạo có lý trí”[9]. Ngài cũng nói rằng bản tính con người hướng đến ba xu hướng tự nhiên: bảo tồn hiện hữu, bảo tồn giống loài và đặc biệt là tìm kiếm chân lý và sống tính cộng đồng[10]. Những điều đó có nghĩa là bên trong bản tính con người xét như là con người có một sự hướng dẫn “nội tại”, không ngoại trừ ai. Con người tự bản tính có khả năng “làm lành, lánh dữ[11]”. Điều này mang tính phổ quát cho tất cả mọi người, nó không tùy thuộc vào lãnh thổ, thời gian (Ai cũng biết rằng giết người, ăn cắp, lừa dối, ngoại tình là trái với luân thường đạo lý. Ai cũng biết phận làm con phải hiếu thảo với cha mẹ. Ai cũng biết rằng con người cần đối xử tốt với nhau,…). Thật vậy, các nền luân lý tín ngưỡng khác nhau (luân lý Kitô giáo, luân lý cựu ước, luân lý thế tục ngay cả luân lý Phật giáo, Đạo giáo,…) đều được xây dựng dựa trên tính bản nhiên của con người, và bản tính đó do Tạo Hoá phú bẩm. Luân lý Kitô giáo cũng không ngoại lệ, thánh Tôma Aquinô cho rằng luật tự nhiên “là ánh sáng trí tuệ do Thiên Chúa đặt trong ta … Thiên Chúa đã ban ánh sáng và luật này cho con người trong công trình tạo dựng”.[12]
Hơn thế nữa, “hành động đi theo bản tính”, do đó, nghĩa vụ luân lý của con người phải được rút ra từ bản tính của con người và phải được định mức theo bản tính của con người. Con người phải hành động phù hợp với bản tính của mình. Đi ngược lại thì sẽ đưa đến thất bại và sự đổ vỡ vì đó là những hành vi hoặc ta không có phương tiện để theo đuổi hoặc nơi bản tính của ta không có sẵn điều kiện cần thiết để biến nó thành hiện thực. Do vậy, quy luật hành động được ấn định bởi bản tính của con người, cho dù là người Kitô hữu hay người phi- Kitô hữu[13].
Luật tự nhiên (luật bản tính) chỉ ra cho tôi cái quyền tự nhiên để tôi sống như là một con người. Thật thế, theo niềm tin truyền thông trong Giáo Hội, Huấn quyền khẳng định: “Mười Điều Răn là bản tóm tắt các quy luật tự nhiên. Luật tự nhiên ấy hàm chứa các quy tắc hành xử bất biến và phổ quát cho mọi người. Các giới luật này có thể được trình bày theo lối tích cực hoặc tiêu cực”[14].
Một điểm tương đồng giữa luân lý Kitô giáo so với luân lý cựu ước và luân lý thế tục đó là cùng nằm trong mối tương quan với nền luân lý nhân bản. Luân lý Kitô giáo tự bản chất mang tính nhân bản, vì thế nó là nền luân lý của nhân loại. Đặc tính Kitô giáo không đi ngược lại với bản chất con người, và cũng không hoàn toàn tách biệt khỏi bản chất con người, nhưng người Kitô hữu đưa con người đến chỗ hoàn thiện[15]. Chính vì lý do đó, những nền luân lý khác cũng đưa con người đến những trạng thái và thái độ như niềm hy vọng, tự do, lòng yêu thương tha nhân đến mức hy sinh bản thân mình như người Kitô hữu.
- Nét tương phản của luân lý Kitô giáo so với luân lý thời Cựu ước và luân lý thế tục
Có những nét tương phản của luân lý Kitô giáo so với luân lý thời Cựu ước và luân lý thế tục. Để làm rõ vấn đề này, chúng ta điểm qua một số khía cạnh sau:
- Nền tảng luân lý:
Luân lý thế tục thì dựa trên sự nhận thức của lý trí, đưa ra một phán đoán luân lý đơn thuần trên bình diện tự nhiên[16].
Luân lý Cựu ước thì hoàn toàn hệ tại ở Giavê [17]. Thiên Chúa đã tỏ cho dân Israel biết được ý muốn của Người. Đặc biệt, Người đã ban cho dân Israel các giới răn, mà đỉnh điểm chính là giao ước Thiên Chúa đã lập với dân tại núi Xinai qua trung gian là Môsê. Các ngôn sứ sau này đều khởi đi từ lề luật này. Thiên Chúa đối với dân Israel là một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện, tốt lành và làm việc gì cũng tốt. Chính vì thế, sống tốt lành và thánh thiện cũng là điều mà Thiên Chúa truyền dạy cho dân. Điều này đòi hỏi dân phải tin tưởng tuyệt đối, luôn vâng phục và kính sợ và yêu mến Đức Chúa. Câu trả lời mạnh mẽ của toàn dân Israel được diễn tả qua câu: “Mọi điều Đức Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành” (Xh 19, 8; 24,7). Tóm lại, cốt lõi của luân lý Cựu ước được chứa đựng trong luật Chúa và luật Môsê, nghĩa là trong luật Tôrah[18].
Còn luân lý Kitô giáo thì dựa trên mặc khải và đức tin[19]. Đức Giêsu trở thành quy luật cho đời sống luân lý dựa trên nền tảng Ngài là ai đối với chúng ta[20]. Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai? (Mt 16, 15). Khi mỗi người có câu trả lời cho chính mình thì cuộc sống của mỗi người cũng sẽ khác nhau. Người Kitô hữu chiêm ngưỡng Đức Giêsu là mẫu gương hành động phải noi theo. Đức Giêsu chính là nền tảng và là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Hay nói cách khác, Đức Giêsu Kitô là khuôn mẫu hướng dẫn những đặc tính luân lý Kitô giáo. Con người được mời gọi ngày càng trở nên giống như Ngài.
- Mục tiêu[21]
Mục tiêu của luân lý thế tục (đạo đức) chỉ đơn thuần thuộc trật tự tự nhiên. Nó đề nghị cách thức hành động để toàn thể cuộc sống và mỗi hành vi con người hòa hợp với lý trí. Do đó, đạo đức hay luân lý thế tục giúp con người thành tựu bản tính người và hiện thực các khả năng chính yếu của họ.
Mục tiêu của luân lý Cựu ước là chu toàn và thực thi ý muốn của Thiên Chúa để con người được hạnh phúc và sống lâu. Nếu ai tuân giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa thì sẽ được sống lâu, hạnh phúc và thành công còn ai không tuân giữ thì phải chết (Đnl 5, 32). Hy vọng được các phúc lộc trần gian vẫn còn là giấc mơ lớn đối với họ. Trong toàn bộ Cựu ước, con người lấy hạnh phúc trần gian làm cứu cánh[22]. Ngay cả niềm mong chờ Đấng Mêsia cùng chính là niềm mong chờ một Đấng có thể giải thoát họ khỏi sự đô hộ của đế quốc, làm cho quốc gia họ hùng mạnh. Nói cho cùng, luân lý Cựu ước chỉ xoay quanh hạnh phúc và mối lợi ở đời này mà thôi. Chính vì thế, họ không thể giải thích được: Tại sao người đạo đức và công chính phải chịu đau khổ, không được hưởng các phúc lộc trần gian như lời Thiên Chúa hứa (như trường hợp của ông Gióp)?
Mục tiêu của luân lý Kitô giáo chính là giúp con người hiện thực phận vị là con cái của Thiên Chúa trên trần gian và vinh phúc[23]. Bởi vì là con cái của Thiên Chúa, người Kitô hữu phải sống như thế nào để xứng đáng với phẩm vị đó. Hơn thế nữa, mục tiêu cốt lõi của con cái Chúa không phải là thỏa mãn những đam mê trần tục mà là để được hưởng sự sống đời sau. Do vậy, đời sống luân lý Kitô giáo được thể hiện rõ trong tương quan giữa con người với con người và giữa con người với Thiên Chúa.
- Nội dung [24]
Xét trong bản tính của luân lý thế tục, các triết gia Kinh viện cổ điển cho rằng “hành động đi theo hữu thể – Agere sequitur esse”. Vì thế, con người phải là hữu thể con người trước đã rồi mới tiến đến những hành động luân lý. Tuy nhiên, xét theo nhãn quan đức tin, con người không chỉ là “con người đơn thuần” nhưng là những chi thể trong nhiệm thể của Đức Kitô. Mà những chi thể trong Đức Giêsu thì khác hoàn toàn với con người, xét như một hữu thể người mang “bản tính đơn thuần”. Nguyên lý hành động chính yếu của người Kitô hữu là ân sủng và các nhân đức (đức tin, đức cậy và đức mến). Luân lý thế tục cậy dựa vào sức mạnh con người (lý trí) để thành tựu bản thân. Trong khi đó, luân lý Kitô giáo cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa.
- Cách giải thích và hành động
Như đã nói ở trên, luật tự nhiên cho chúng ta cái quyền để chúng ta sống như là một con người, với nhân vị là một con người. Luật tự nhiên là khởi điểm chung cho mọi nền luân lý khác nhau. Tuy nhiên, các nền luân lý giải thích luật tự nhiên và hành động theo những cách thức khác nhau. Luân lý thế tục thường bị chi phối nhiều bởi lối sống, văn hóa, xã hội, giáo dục,… Luân lý Cựu ước thì quy về Tôrah. Còn luân lý Kitô giáo thì quy Kitô và quy Giáo hội. Ta lấy một vài ví dụ để làm rõ vấn đề này. Theo luật tự nhiên, con người phải tôn trọng sự sống, nghĩa là không được giết người. Luân lý thế tục giải thích điều này khác nhau và hành động khác nhau tùy theo nền văn hóa, xã hội của mỗi vùng. Tại nhiều nơi, phá thai không được kể là giết người, vì thế, pháp luật cho phép được phá thai. Luân lý Cựu ước cho rằng giết người là cướp đi sự sống của một ai đó, nhưng ngược lại, hàng ngũ tư tế có quyền kết án một ai đó bằng hình thức tử hình qua việc ném đá, thả xuống sông,…mà không kể là giết người. Còn luân lý Kitô thì không được giết người với bất cứ lý do nào, không được phá thai. Hơn thế nữa, nếu ai thù ghét và giận anh em mình thì nghĩa là mình đang giết họ và đang bị đưa ra tòa (Mt 5, 21-26).
- Sự mới mẻ của luân lý Kitô giáo so với luân lý thời Cựu ước và luân lý thế tục
Sự mới mẻ của luân lý Kitô giáo khởi đi từ chính Đức Kitô Giêsu[25]. Chính Ngài đã thổi vào nền luân lý nhân loại một luồng gió mới, luồng gió của Tình yêu, luồng gió của sự phục vụ và luồng gió của ân sủng. Chính mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm phục sinh làm phát xuất những điểm mới mẻ trong luân lý Kitô giáo.
- Luân lý Kitô giáo là luân lý tình yêu

Chúng ta không phủ nhận tầm quan trọng của tình yêu trong nền luân lý thế tục và luân lý Cựu ước. Tuy nhiên, tình yêu trong Đức Kitô lại mang một chiều kích hoàn toàn mới. Tình yêu ấy thể hiện khi Ngài đã từ bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phạm nhân (Pl 2, 6-7). Tình yêu ấy thể hiện việc Ngài đã tự nguyện chịu chết trên cây thập tự để giải thoát con người khỏi tội lỗi (Is 52,13 -53,12). Tình yêu ấy thể hiện việc Ngài đã sống lại để đưa chúng ta về với Chúa Cha. “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 16). Cũng thế, đời sống luân lý Kitô giáo là sự tham dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa[26]. Điều này đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc không bao giờ tàn.
Đức Kitô đã đến và thực hiện những gì mà luật cựu ước không thể thực hiện được. Thật vậy, nền luân lý Cựu ước bị giới hạn bởi ba điều: Thứ nhất là hy vọng được các phúc lộc ở trần gian còn quá lớn đối với người Do Thái. Thứ hai là giới hạn tình huynh đệ và sự quan tâm trong cộng đồng người Do Thái (đây chính là chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi). Thứ ba là cách trình bày và thi hành luật nặng tinh thần vụ luật. Đức Giêsu cho thấy rõ những giới hạn đó. Vì thế, các cuộc tranh luận của Ngài với nhóm Biệt phái và Luật sĩ thường xoay quanh việc thực hành lề luật một cách hẹp hòi, vụ luật, đồng thời xem nhẹ các vấn đề quan trọng như đức tin
Con người mang hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu. Và Đức Kitô là khuôn mẫu hoàn hảo của tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, người Kitô hữu cần noi gương, bắt chước Đức Kitô trong đời sống luân lý hằng ngày. Đức Kitô đã đáp trả trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha và con người cũng được mời gọi như vậy. Luân lý Kitô giáo không gì khác là sự đáp trả lại tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Sự đáp trả ấy không chỉ trong tương quan với Thiên Chúa nhưng còn trong tương quan với tha nhân và chính mình. Một đòi hỏi trong nền luân lý Kitô giáo là yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt hại anh em (Mt 5, 43-44).
- Luân lý Kitô giáo là luân lý ân sủng
Ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô là sự giải phóng khỏi tội lỗi. Tội lỗi làm mờ đi những chuẩn mực của giá trị luân lý, và như một hình thức nô lệ cho Satan, nó làm yếu đi sức mạnh thúc đẩy của giá trị luân lý[27]. Khi con người không làm nô lệ cho tội lỗi thì con người sống trong tình trạng ân sủng. Và đây chính là nét mới mẻ trong luân lý Kitô giáo, luân lý trong ân sủng. Khi con người sống trong ân sủng thì cũng có nghĩa là con người sống trong tình yêu.
Luân lý Kitô giáo là thành quả và là đòi hỏi của ơn cứu độ giải thoát của Đức Giêsu Kitô. Nền luân lý này nhận thức và công bố cho mọi người rằng con người lịch sử tội lỗi không thể và không đủ để biết và thúc đẩy giá trị luân lý theo cách thế hoàn hảo. Chắc chắn ta không thể giản lược toàn bộ nội dung luân lý Kitô giáo vào sự giải phóng khỏi tội lỗi, Satan, xác thịt, sự chết và nô lệ. hưng nó vẫn còn là khía cạnh chủ yếu của ơn cứu độ và điều này được gọi là “âm hưởng” đầu tiên của Giao ước trên luân lý Kitô giáo[28].
Khi con người còn bị tội lỗi bao trùm, thì nền luân lý còn bị méo mó. Tựa như một nhóm tội phạm lại là những nhà lập pháp của một quốc gia, nếu như vậy, luật pháp của quốc gia đó có vững, có đúng hay chăng. Đức Giêsu Kitô đem ơn cứu độ đến cho thế gian. Nhờ vậy, con người từ nay sống trong ân sủng. Khi con người sống trong ân sủng, thì những luân lý do con người thiết lập và khám phá ra đều phản ánh ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Luân lý Cựu ước cho ta thấy rõ điều được nói trên. Mặc dù, nền tảng của luân lý Cựu ước là những mệnh lệnh của “Giavê” (Luật Tôrah), nhưng luật ấy còn nhiều giới hạn bởi con người chưa hoàn toàn sống trong ân sủng với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đức Giêsu nói với nhóm người Pharisêu: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông.,….Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 5-9).
- Luân lý Kitô giáo là nền luân lý mời gọi sự hoán cải[29]
Tin Mừng của Đức Kitô luôn là một lời mời gọi khẩn thiết và mang tính chất hiện sinh, mời gọi chúng ta bước vào cuộc sống mới trong Đức Kitô. Thiên Chúa đã, đang và sẽ xâm nhập vào cuộc sống của nhân loại cũng như can thiệp vào cuộc sống của thế giới loại người để đưa ta vào đời sống mới trong Đức Kitô. Lời mời gọi này đòi hỏi con người đáp lời bằng việc thay đổi chính mình, nghĩa là sống trong sự hoán cải thường xuyên[30]. Sự hoán cải chỉ được thực hiện khi ta dứt khoát với tội lỗi. Điều này chắc chắn đụng chạm đến lãnh vực luân lý khi nó mời gọi hoán cải cõi lòng và biến đổi mọi lãnh vực trong cuộc sống hằng ngày. Tuy trong luân lý Cựu ước, Thiên Chúa cũng mời gọi dân Israel hãy từ bỏ con đường cũ, hãy sám hối, ăn năn và tuân giữ các lề luật của Ngài. Nhưng trong luân lý Kitô giáo, sự hoán cải đòi hỏi một cách triệt để hơn. Luân lý Kitô giáo làm đảo lộn cái tự mãn của con người, đưa con người ra khỏi sự ích kỷ của mình và đem lại một ý nghĩa mới cho cuộc đời.
- Kết luận[31]:
Nét đặc trưng của luân lý Kitô giáo là nền luân lý liên quan đến sự mặc khải và ơn cứu độ được thực hiện bởi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong Đức Kitô là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể, người Ki tô hữu gặp được sự thật, được soi sáng trí tuệ để phân biệt thiện và ác, lành và dữ, tốt và xấu, sống các mối phúc Tin Mừng và giới luật mới của yêu thương.
Nơi Đức Kitô, con người cũng tìm thấy con đường dẫn đến Chúa Cha và từ đó tìm thấy cùng đích thực sự của chính mình. Con người được hiệp thông sâu xa với Đấng ban sự sống và đạt tới mức hoàn hảo của chính mình trong sự sống đời đời.
Chúa kitô phải là trung tâm cho mọi suy tư của chúng ta về luân lý. Trong Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy chuẩn mực tối thượng của đạo đức, cũng như nguồn cảm hứng và động lực chính để sống trọn vẹn chiều kích luân lý của con người, với mục tiêu tối hậu là “sự sống đời đời trong Chúa Kitô”. Lối sống của chúng ta là sự đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Nó phải ảnh hưởng, tác động đến việc thiết lập một thế giới ngày càng tốt hơn, nhân đạo hơn, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa.
Con người không thể giản lược luân lý Kitô giáo vào việc khám phá lý thuyết và thực hành một ý tưởng trừu tượng, một giá trị cá biệt hay một lề luật đơn giản. Luân lý Kitô giáo khởi đi từ sự kiện lịch sử giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Giêsu Kitô. Luân lý Kitô giáo được biến đổi vào trong mối tương quan liên vị, cuộc gặp gỡ thực sự và riêng tư, cuộc đối thoại giữa các ngôi vị[32].
Nói tóm lại, luân lý Kitô giáo đòi hỏi một thái độ sống các nhân đức đối thần (tin, cậy, mến), yêu thương thù địch, sống khiêm tốn, hy sinh và đón nhận đau khổ bằng cách hiệp thông với thập giá[33]. “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
[1] Barnaba Lê An Phong, SDB, Thần học luân lý căn bản (Thành phố Hồ Chí Minh: Học viện Thần học Philip Rinaldi, 2020), tr. 16.
[2] Cao Chu Vũ, OP, Thần học luân lý tổng quát (Thành phố Hồ Chí Minh: Trung tâm Học vấn Đa Minh, 2022), tr.12.
[3] Cao Chu Vũ, OP., tr. 19.
[4] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, Luân lý cơ bản (Thành phố Hồ Chí Minh: Đại Chủng viện Thánh Giuse, 1998), tr. 226.
[5] “Lương tâm” còn được gọi là cõi lòng, nơi sâu thẳm nhất nơi con người Ngoài ra, triết gia Mạnh Tử của Trung Hoa gọi là bản tính tốt. Lương tâm trong tiếng Latin là “conscientia”, trong tiếng Hy lạp là “Syneidesis” và trong Hán Việt thì gọi là lương tri.
[6] Ủy ban Thần học Quốc tế, Tìm kiếm một nền đạo đức phổ quát: một nhãn quan mới về luật tự nhiên, dịch giả: Cao Chu Vũ, OP (Thành phố Hồ Chí Minh: Trung tâm Học vấn Đa Minh, 2021), tr. 40 -42.
[7] Lm. Ernest Nguyễn Văn Hưởng, Luân lý cơ bản (Thành phố Hồ Chí Minh: Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn, không rõ), tr.31 – 32.
[8] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, sđd., tr. 304.
[9] Tôma Aquinô, ST I-II, p.91, a. 2.
[10] Cao Chu Vũ, OP, sđd., tr. 238.
[11] Lm. Ernest Nguyễn Văn Hưởng, Sđd., tr.32.
[12] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1955.
[13] Karl H.Peschke, SVD, Thần học luân lý tổng quát, dịch giả: không rõ (Đà Lạt: Giáo hoàng Học viện Piô X, 1972), tr. 248-250.
[14] Barnaba Lê An Phong, SDB, sđd., tr. 48.
[15] Gaudium et Spes, số 22 & 23.
[16] Cao Chu Vũ, OP, sđd., tr. 20.
[17] Karl H.Peschke, SVD, sđd., tr. 31.
[18] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, sđd., tr. 323-328.
[19] Cao Chu Vũ, OP, sđd., tr. 20 – 21.
[20] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, sđd., tr. 35.
[21] Cao Chu Vũ, OP, sđd., tr. 20.
[22] Karl H.Peschke, SVD, sđd., tr. 50 – 51.
[23] Cao Chu Vũ, OP, sđd., tr. 20.
[24] Cao Chu Vũ, OP, sđd., tr. 21.
[25] Lm. Ernest Nguyễn Văn Hưởng, Sđd., tr.32 – 34.
[26] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, sđd., tr. 21.
[27] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, “Có một nền luân lý Kitô giáo hay không?”. Truy cập ngày 05-12-2022, https://catechesis.net/co-mot-nen-luan-ly-kito-giao-hay-khong/?fbclid=IwAR15zO-Sns2h5QnANyTgkmzUHKI5ULD62w3Wk8NH3gq9folrj14AnIjWgA8.
[28] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, sđd., tr. 21
[29] Sđd..
[30] P. Nguyễn Thái Hợp, OP, Thần học luân lý xã hội (Thành phố Hồ Chí Minh: Trung tâm học vấn Đa Minh, 2005), tr. 21 -22.
[31] Barnaba Lê An Phong, SDB, sđd., tr. 20 – 21.
[32] Lm. Giuse Nguyễn Đức Quang, “Có một nền luân lý Kitô giáo hay không?”. Truy cập ngày 05-12-2022, https://catechesis.net/co-mot-nen-luan-ly-kito-giao-hay-khong/?fbclid=IwAR15zO-Sns2h5QnANyTgkmzUHKI5ULD62w3Wk8NH3gq9folrj14AnIjWgA8.
[33] Lm. Ernest Nguyễn Văn Hưởng, Sđd., tr.33.
